Dòng chảy dịch não tủy là gì? Các công bố khoa học về Dòng chảy dịch não tủy
Dòng chảy dịch não tủy là sự di chuyển của dịch não tủy trong hệ thống dịch não tủy. Dịch não tủy là một chất lỏng tồn tại trong hệ thống thần kinh trung ương, ...
Dòng chảy dịch não tủy là sự di chuyển của dịch não tủy trong hệ thống dịch não tủy. Dịch não tủy là một chất lỏng tồn tại trong hệ thống thần kinh trung ương, bao gồm não và tủy sống. Nhiệm vụ chính của dịch não tủy là bảo vệ và cung cấp dưỡng chất cho não và tủy sống.
Dòng chảy dịch não tủy xảy ra thông qua một hệ thống các dẫn hướng và màng chắn dịch, bao gồm các dẫn xuống (aqueduct of Sylvius, foramen Magendie, foramen of Luschka) và các màng chắn dịch như vách não, màng ruột não và màng chằng cột sống.
Dòng chảy của dịch não tủy rất quan trọng để duy trì cân bằng nội tiết trong hệ thống thần kinh trung ương, đồng thời giúp làm giảm áp lực và bảo vệ não và tủy sống khỏi sự va chạm và tổn thương. Bất kỳ sự tắc nghẽn hay rối loạn nào trong dòng chảy dịch não tủy có thể gây ra các vấn đề và bệnh lý như tăng áp lực trong hộp sọ hay viêm màng não.
Dòng chảy dịch não tủy được điều tiết thông qua quá trình sản xuất và hấp thụ dịch não tủy.
Sản xuất dịch não tủy: Dịch não tủy được sản xuất chủ yếu bởi màng não chóp và các mao mạch máu não. Các mao mạch máu não phân bố trên bề mặt của não và có tác dụng lọc chất lỏng trong các mao mạch này, giữ lại các chất cần thiết để sản xuất dịch não tủy và loại bỏ các chất thừa. Dịch não tủy sau đó được sản xuất và lưu trữ trong các khoa dịch não tủy nằm trong tủy sống và các khoang não như não trước nhĩ và não sau nhĩ.
Hấp thụ dịch não tủy: Dịch não tủy được hấp thụ và tuần hoàn trở lại hệ cơ thể thông qua mao mạch máu và hệ thống mạch dịch não tủy. Các mao mạch máu bao phủ các khoang dịch não tủy và giúp hấp thụ dịch vào mạch máu. Cơ chế hấp thụ diễn ra thông qua áp lực osmotic và quá trình trao đổi chất giữa mao mạch máu và dịch não tủy. Dịch được hấp thụ trở lại hệ cơ thể giúp duy trì nồng độ chất lỏng chính xác trong dịch não tủy và giữ cân bằng nội tiết.
Dòng chảy của dịch não tủy cũng phụ thuộc vào nhịp thở của con người. Khi hít thở, áp suất trong khoang vùng ngực giảm, điều này giúp dịch não tủy chảy từ không gian sọ xuống không gian tủy sống. Khi thở ra, áp lực trong không gian tủy sống tăng lên, giúp dịch não tủy chảy từ không gian tủy sống lên không gian sọ. Quá trình này giúp tuần hoàn dịch não tủy và đảm bảo chức năng của nó.
Bất kỳ sự tắc nghẽn, rối loạn hoặc sự thay đổi bất thường nào trong dòng chảy dịch não tủy có thể gây ra vấn đề về sức khỏe như viêm màng não, tăng áp lực sọ hay các bệnh lý liên quan đến hệ thống thần kinh trung ương.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "dòng chảy dịch não tủy":
Tham gia của hệ thần kinh trung ương (CNS) là một trong những yếu tố nguy cơ quan trọng trong bệnh bạch cầu cấp tính thời thơ ấu (AL). Việc phát hiện tế bào khối u trong dịch não tủy (CSF) là một trong những dấu hiệu chính của tổn thương CNS. Thông thường, sự hiện diện của tế bào bạch cầu trong CSF được đánh giá thông qua hình thái học tế bào cổ điển (CM) của các lát cắt cytospin. Tuy nhiên, độ nhạy của phương pháp này là tương đối thấp. Phân tích dòng chảy (FC) với độ nhạy cao hơn có thể cung cấp khả năng chẩn đoán tốt hơn cho việc phát hiện tế bào bạch cầu trong CSF. Mục tiêu. So sánh kết quả phát hiện tế bào khối u trong CSF của trẻ em mắc bệnh AL bằng phương pháp FC và CM. Phương pháp. 183 mẫu từ 52 bé trai và 31 bé gái độ tuổi từ 5 tháng đến 15 tuổi với các loại bệnh bạch cầu lympho cấp tính (ALL) khác nhau (77 bệnh nhân), bệnh bạch cầu myeloid cấp tính (AML) (5 bệnh nhân) và bệnh bạch cầu hai kiểu cấp tính (1 bệnh nhân) đã được nghiên cứu. 17 mẫu dương tính thu được từ chọc dò thắt lưng do chấn thương đã được loại trừ khỏi phân tích vì tế bào nổ cũng được phát hiện trong máu ngoại vi. Việc so sánh giữa dữ liệu FC và CM được thực hiện trên 166 mẫu. Trong số các mẫu này, 61 mẫu được lấy vào thời điểm chẩn đoán ban đầu, 34 mẫu – trong quá trình theo dõi AL, 17 mẫu – tại thời điểm tái phát và 54 mẫu – trong quá trình theo dõi tái phát. Các nhóm kháng thể đơn dòng được xây dựng theo kiểu hình miễn dịch của tế bào khối u trong tủy xương. Kết quả. Trong 24 trên 166 mẫu (14,5%), tế bào khối u đã được phát hiện bằng CM. Trong tất cả các trường hợp này, tế bào nổ cũng đã được phát hiện bằng FC, trong khi FC cho phép phát hiện tế bào nổ trong 35 mẫu khác. Tổng số mẫu dương tính với FC là 59 trên 166 (35,5%). Tần suất này cao hơn đáng kể so với tỷ lệ các trường hợp dương tính với CM (g < 0,0001). Trong các mẫu chẩn đoán ban đầu có 20 bệnh nhân dương tính với FC và chỉ có 10 bệnh nhân dương tính với CM (32,8% so với 16,1%, p=0,0585). Tại thời điểm tái phát, 9 (52,9%) bệnh nhân dương tính với FC, trong khi 6 (35,3%) dương tính với CM (p=0,4897). Trong cả hai loại ALL, B-lineage và T-lineage, được phân tích riêng, FC phát hiện tế bào nổ trong CSF thường xuyên hơn CM (p=0,0098 và p=0,0002 tương ứng). Số lượng tế bào nổ tuyệt đối trong 1 ml CSF dương tính với cả hai phương pháp cao hơn đáng kể so với các mẫu dương tính chỉ bằng FC (trung vị = 418, khoảng 8–158171 và trung vị = 34, khoảng 5–2762 tương ứng, g = 0,0002). Do đó, FC cho phép phát hiện tế bào khối u trong CSF thường xuyên hơn so với CM truyền thống, điều này có thể được giải thích chủ yếu bởi độ nhạy cao hơn của FC. Hơn nữa, FC cũng có thể áp dụng cho việc theo dõi định tính và định lượng tổn thương CNS. Tuy nhiên, tác động dự đoán của nghiên cứu CSF bằng FC là không rõ ràng. Trong số 13 bệnh nhân mà kết quả không đồng nhất được thu thập trong các mẫu chẩn đoán ban đầu và tại thời điểm tái phát, chỉ có một bệnh nhân mà phân loại nguy cơ có thể đã thay đổi. Đối với tất cả những bệnh nhân khác, có các yếu tố nguy cơ khác, làm giảm ý nghĩa của việc phát hiện tế bào bạch cầu ác tính của FC trong CSF. Kết luận. Phân tích dòng chảy cho phép phát hiện tế bào nổ khối u thường xuyên hơn trong CSF của trẻ em mắc bệnh AL, trong khi ý nghĩa dự đoán của những phát hiện này vẫn còn không rõ ràng và cần được xác nhận trong các thử nghiệm lớn hơn.
Khai báo không có xung đột lợi ích liên quan nào.
- 1